Trong các cuộc chiến tranh thời cổ, ngựa chiến là loài động vật được sử dụng chủ yếu để di chuyển và là thứ không thể thiếu cho các chiến binh, kỵ binh trong các trận chiến tay đôi hay các trận đánh tập kích, đột phá cũng như sử dụng để do thám, thông tin liên lạc, vận chuyển…
Tìm hiểu về nghi thức cưỡi ngựa bắn cung của những Samurai Nhật Bản (Kì 2)
Tìm hiểu về nghi thức cưỡi ngựa bắn cung của những Samurai Nhật Bản (Kì 1)
Điểm danh những con ngựa nổi tiếng trong lịch sử chiến tranh
Lịch sử của những con ngựa chiến
Ngựa được sử dụng trong chiến tranh xảy ra hơn 5000 năm trước. Bằng chứng sớm nhất của việc dùng ngựa trong chiến tranh có từ Lục địa Á-Âu(Eurasia) (4000- 3000 TCN). Tranh minh họa của người Summerian từ 2500 TCN mô tả một số loại xe ngựa kéo. Khoảng 1600 TCN, những cải thiện về thiết kế yên cương ngựa và xe ngựa kéo đã dẫn đến xe ngựa kéo được sử dụng phổ biến trong suốt Cận đông cổ đại (Tây Á), và lần đầu tiên những dạng văn bản hướng dẫn huấn luyện ngựa sử dụng cho chiến tranh được viết vào khoảng 1350 TCN.
Chiến thuật sử dụng kỵ binh chính thức thay thế xe ngựa kéo, vì vậy cần có phương pháp huấn luyện mới, và vào khoảng 360 TCN, viên chỉ huy kỵ binh người Hy Lạp Xenophon đã viết một luận thuyết sâu rộng về thuật cưỡi ngựa. Hiệu quả của ngựa trong chiến trận cũng đã được cách mạng hóa bởi những cải tiến công nghệ, gồm phát minh ra yên xe, bàn đạp yên ngựa, và vòng cổ ngựa.
Rất nhiều ngựa với kích cỡ và giống khác nhau đã được sử dụng trong chiến tranh, nó phụ thuộc vào tính chất của cuộc chiến. Các giống ngựa khác nhau cũng được sử dụng cho mục đích khác nhau, chúng được sử dụng để trinh sát, phá kỵ binh, đột kích, thông tin liên lạc, hoặc tiếp tế quân nhu. Trong suốt lịch sử, la và lừa cũng như ngựa, đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp quân nhu cho quân đội trên chiến trường. Ngựa phù hợp với chiến thuật chiến tranh của các nền văn hóa du mục từ thảo nguyên Trung Á. Nhiều nền văn minh Đông Á đã sử dụng phổ kỵ binh và xe ngựa. Các chiến binh Hồi giáo dựa vào khinh kỵ trong các chiến dịch của họ trên khắp Bắc Phi, châu Á và châu Âu bắt đầu từ thế kỷ thứ 7 và thứ 8 sau công nguyên.
Người châu Âu sử dụng một số loại ngựa chiến tranh trong thời Trung Cổ, và các chiến binh thiết kỵ nổi tiếng nhất của thời kỳ này là kỵ sỹ giáp sắt. Với sự suy giảm của các kỵ sỹ và gia tăng của thuốc súng trong chiến tranh, kỵ binh ánh sáng một lần nữa nổi lên, được sử dụng trong cả cuộc chiến tranh châu Âu và trong cuộc xâm lược châu Mỹ. Những trận chiến bằng kỵ binh đã tạo ra vô số các vai trò trong những năm cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 và thường có vai trò quyết định cho chiến thắng trong các cuộc chiến tranh của Napoleon. Ở châu Mỹ, các bộ lạc dân bản địa đã học việc sử dụng ngựa và phát triển các chiến thuật chiến tranh và các trung đoàn ngựa cơ động cao đóng vai trò quan trọng trong cuộc Nội chiến Mỹ. Kỵ binh bắt đầu bị loại bỏ sau Thế chiến thứ nhất do ưu thế của chiến tranh thiết giáp, mặc dù một vài đơn vị kỵ binh ngựa vẫn còn được sử dụng vào chiến tranh thế giới II, đặc biệt là trinh sát. Vào cuối Chiến tranh Thế giới II, ngựa đã được hiếm khi được thấy trong trận chiến, nhưng vẫn còn sử dụng rộng rãi để vận chuyển binh lính và quân nhu.
Ngày nay, trong chiến trận các đơn vị kỵ binh gần như không có, mặc dù ngựa vẫn được nhìn thấy trong tổ chức lực lượng vũ trang của các nước thuộc thế giới thứ ba. Nhiều quốc gia vẫn duy trì các đơn vị nhỏ để dùng cho tuần tra và trinh sát, và các đơn vị ngựa trong quân đội sử dụng cho các mục đích nghi lễ và giáo dục. Ngựa cũng được sử dụng để tái hiện lịch sử (Historical reenactment) của trận chiến, thực thi pháp luật, và trong các cuộc thi cưỡi ngựa bắt nguồn từ kỹ năng cưỡi và đào tạo từng được sử dụng bởi quân đội. Ngựa gắn với lịch sử chiến tranh lâu dài của loài người, gắn liền với các tướng lĩnh nhất là các võ tướng trên chiến địa, gắn liền với những sử thi, truyền thuyết của loài người.
Còn tiếp…
Tô Thiện (tổng hợp)