Trong lúc thế giới đang thai nghén về súng đại bác thì “thần cơ thương pháo” của Hồ Nguyên Trừng là sáng chế vĩ đại, một vũ khí khiến cho quân Minh bao phen hồn bay phách lạc.
Thần khí nước Nam: Nam Kỳ Cung của Lý Văn Bưu
Chàng Lía: Anh hùng bị lãng quên trong lịch sử Việt Nam
Trong lịch sử Việt Nam, triều đại nhà Hồ tồn tại ngắn ngủi (1400 – 1407). Tuy nhiên, trong khoảng thời gian này, Hồ Nguyên Trừng (1374 – 1446) là con đầu của vua Hồ Quý Ly nổi lên là một thiên tài quân sự kiệt xuất.
Ông chính là tổng công trình sư của phòng tuyến chống giặc bắt đầu ở yếu huyệt Đa Bang (Ba Vì) kéo dài theo bờ Nam Sông Đà, sông Hồng cho đến sông Ninh (Nam Hà) rồi lại tiếp tục theo bờ sông Luộc, sông Thái Bình đến Bình Than dài trên 400 km. Ông là người đã sáng tạo ra cách phòng thủ độc đáo. Ông cho đúc nhiều dây xích lớn chăng qua những khúc sông hiểm trở, kết hợp với quân mai phục trang bị bằng hỏa lực mạnh, từng khiến cho thủy binh giặc nhiều phen khiếp đảm.
Nói đến Hồ Nguyên Trừng người ta thường nhắc nhiều nhất đến công sáng chế ra súng “thần công” của ông. ‘”Thần cơ sang pháo” và “Cổ lâu thuyền” được coi là hai phát minh lớn về vũ khí do Hồ Nguyên Trừng sáng chế.
Thuốc súng xuất hiện ở nước ta khá sớm, được sử dụng trong các lễ hội và cả trong quân sự. Từ cuối thế kỷ 14, quân đội Đại Việt đã được trang bị, sử dụng hoả khí phổ biến và có hiệu quả.
Đầu thế kỷ 15, do yêu cầu chống giặc ngoại xâm, muốn có nhiều súng trang bị cho các thành trì và các hạm đội, Hồ Nguyên Trừng đã phải gấp rút tổ chức những xưởng đúc súng lớn. Ông đã đúc kết những kinh nghiệm cổ truyền, trên cơ sở đó, phát minh, chế tạo ra nhiều loại súng có sức công phá “sấm sét”. Từ việc cải tiến súng, chế thuốc súng, hiểu rõ sức nổ của thuốc đạn, Hồ Nguyên Trừng phát minh ra phương pháp đúc súng mới gọi là súng “Thần cơ”. Đây là loại súng có đầy đủ các bộ phận cơ bản của loại súng Thần công ở những thế kỷ sau này.
Loại súng này sử dụng đạn đúc bằng chì, gang hoặc đá, có sức xuyên và công phá tốt, hiệu quả sát thương và uy hiếp tinh thần quân địch rất cao. Cấu tạo súng Thần công bao gồm: thân súng dài 44 cm, nòng súng dài 5 cm, trục quay, thước ngắm, lỗ điểm hỏa, khối hậu. Nòng súng là một ống đúc bằng sắt hoặc bằng đồng.
Phía đuôi súng được đúc kín có bộ phận ngòi cháy ở chỗ nhồi thuốc nổ. Đạn pháo là mũi tên bằng sắt lớn. Khi bắn, người ta nhồi thuốc súng vào phía đáy, rồi đặt mũi tên vào giữa và nhồi loại đạn ghém bằng sắt và chì.
Những cuộc khai quật tại Thành Nhà Hồ (năm 2008, 2010, 2012) đã tìm được khá nhiều đạn đá hình khối cầu tròn đều với nhiều kích cỡ khác nhau. Nghiên cứu đạn sử dụng các nhà chuyên môn cho rằng: Súng thần công thời Hồ có thân hình ống tròn dài đều, nòng trơn, phía sau thân hơi phình to để nạp thuốc súng.
Trên thân có lỗ nối ngòi nổ với phần thuốc súng để khi sử dụng châm lửa kích thuốc nổ đẩy viên đạn khỏi nòng súng đi xa về phía trước. Đạn được chế tác từ chất liệu đá, đất nung có độ cứng cao, khi bắn viên đạn có sức công phá lớn. Đạn có nhiều loại kích cỡ to nhỏ khác nhau, chứng tỏ xưa có nhiều loại súng cỡ nòng khác nhau.
Trong sách “Vân Đài loại ngữ” Lê Quý Đôn viết: “Con trai của Hồ Quý Ly là Hồ Nguyên Trừng đã sáng tạo ra phương pháp làm súng “thần cơ thương pháo”. Loại súng này có nhiều cỡ: lớn thì kéo xe, nhỏ thì dùng giá đỡ hay vác vai… Súng có ba loại: súng lớn đặt trên lưng voi, súng nhỏ hai người khiêng, súng nhỏ vác vai… Tuy nhiên, Hồ Nguyên Trừng chú trọng chế tạo loại thần cơ lớn gọi là “Thần cơ pháo” – thực chất là súng Thần công cỡ lớn được đặt cố định trên thành hoặc trên xe kéo cơ động.”
Vào lúc thế giới đang còn thai nghén về súng đại bác thì súng “thần cơ” của Hồ Nguyên Trừng là một sáng chế vĩ đại. Dù Trung Quốc là nơi phát minh ra thuốc súng nhưng trong cuộc xâm lược Đại Việt. Quân Minh bao phen kinh hoàng về loại súng này mà không hiểu nổi. Nhưng cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại và không được dân ủng hộ, trong lúc quân giặc giương cao cờ “phù Trần diệt Hồ”. Giặc Minh bắt được nhiều súng thần cơ, bắt được cả nhà sáng chế ra nó.
Khi chiếm được những khẩu pháo này họ rất đỗi kinh ngạc và khâm phục vì “thần cơ thương pháo”, có nhiều ưu thế hơn hẳn vũ khí của quân Minh. Họ nhanh chóng chở những cỗ “thần cơ” của Hồ Nguyên Trừng về nước, dùng súng Thần An Nam khi đánh với Mông Cổ.
Sau khi thất bại trong cuộc kháng chiến chống Minh. Năm 1407, 17.000 người Việt gồm gia quyến quan tướng họ Hồ và quân lính Đại Việt bị đưa về Nam Kinh, Trung Quốc. Vì tính mạng của cha (Hồ Quý Ly) nên Hồ Nguyên Trừng buộc phải phục vụ cho nhà Minh trong việc trông coi xưởng đúc súng.
Minh sử đánh giá cao công lao của Hồ Nguyên Trừng. Sau khi ông qua đời, vua nhà Minh sắc phong làm “Thần hỏa khí”, mỗi khi tế súng đều phải tế Hồ Nguyên Trừng. Trong “Vân đài loại ngữ”, Lê Quý Đôn viết: “quân Minh khi làm lễ tế súng đều phải tế Trừng”.
Tuy không thể góp công đánh bại quân Minh xâm lược nhưng súng thần công của Hồ Nguyên Trừng đã mở ra sự phát triển quan trọng trong lịch sử quân sự người Việt.
https://youtu.be/NnlUTqAJR5I
V.Đ