Võ thuật Trung Hoa là cái nôi của nền võ thuật thế giới, trải qua hàng ngàn năm từ thuở sơ khai, các dân tộc Trung Hoa đã sáng tạo và phát triển nên hàng ngàn hệ phái võ thuật, có môn còn truyền lại tới ngày nay, có môn đã thất truyền bởi quy môn hay sự biến động của lịch sử. Nhưng nhìn chung, quyền thuật là một dấu ấn rõ nét nhất trong sự phát triển xuyên suốt lịch sử nền văn hóa dân gian Trung Hoa.
Xin được giới thiệu những quyền thuật trứ danh còn lưu truyền và phát triển cho đến ngày nay của biển học võ thuật Trung Hoa.
Tượng hình quyền xuất phát từ tự nhiên
Tượng hình quyền là một loại quyền được cấu thành bằng các động tác mô phỏng “thần, hình” các loại động vật, kể cả biểu hiện của các nhân vật cổ đại nhất định. Đến nay, hầu hết các nhà nghiên cứu võ thuật đều cho rằng Tượng hình quyền là quyền thuật sơ khai nhất của con người, xuất phát từ quan sát vạn vật tự nhiên trong cuộc sống, sau đó được con người áp dụng sáng tạo vào công việc mưu sinh hàng ngày như săn bắn, hái lượm, chống chọi thú dữ… Và như vậy, Tượng hình quyền là môn võ ra đời sớm hơn tất cả. Các quyền pháp của những đại môn phái sau này.
Tượng hình quyền từ đời Tây Hán đã lưu hành rồi chia làm hai loại: Tượng hình và thủ ý (bắt chước hình và giữ ý). Loại tượng hình bắt chước hình thái động vật và nhân vật là chính, theo đuổi hình tượng, tính chiến đấu tương đối kém. Loại thủ ý lấy ý ở những chỗ mạnh trong chiến đấu của động vật để bổ sung cho động tác thực, tính chiến đấu tương đối mạnh. Chủ yếu có Hầu quyền, Ưng quyền, Xà quyền, Đường lang quyền (bọ ngựa), Tuý bát tiên quyền (tám tiên say rượu), Lỗ Trí Thâm tuý điệt (Lỗ Trí Thâm say ngã), Võ Tòng thoát khảo (Võ Tòng khỏi đòn)…
Tượng hình quyền không chỉ có thể làm thân thể khoẻ mạnh mà còn có giá trị nhất định bồi dưỡng cho tư duy hình tượng và nghệ thuật đẹp của con người. Dưới đây xin giới thiệu những loại tượng hình quyền chủ yếu:
1. Hầu quyền (Quyền Khỉ):
Thời kỳ cuối xã hội nguyên thuỷ, điệu “múa khỉ” (hầu vũ” là mô hình thu nhỏ của loại này. Sách “Thượng thư – Ích Tắc” nói: “Từ hỗn mang, con người đã múa khỉ vượn, múa chim chóc, múa gấu, múa voi làm trò vui sinh hoạt…”, đến đời Minh bắt đầu có ghi chép về Hầu quyền. Qua nhiều đời truyền bá phát triển hầu quyền, ban đầu hướng hình múa làm chủ, sau chuyển sang lấy công làm chủ trong chiêu thế.
Nội dung hầu quyền phức tạp, chia Nam Bắc về phong cách có khác nhau. Phương Nam coi trọng đánh sát gần, liền đòn; phía Bắc lại quên khéo lừa đánh đấm. Nhưng đặc điểm chung đều là nhẹ nhõm, linh hoạt, hình tượng, đưa kỹ thuật võ vào trong hình khỉ. Yêu cầu phải làm cho được “ngũ yếu” (năm điều cần) tức là hình cần giống, ý cần thật, bước cần nhẹ, phép đánh cần kín, thân cần linh hoạt.
Đi quyền chú trọng tay mắt chiếu cố nhau, chiêu liền thế liền, lên xuống nhẹ khéo, chân thân hợp nhất. Sau này, hầu quyền trong bài múa biểu diễn có thêm phần rời động, nhòm ngó, xem đào, leo vịn, hái đào, leo cành, làm liều, giấu đào, ngồi xổm, ăn đào, mừng rỡ, kinh sợ, vào động… đều do các động tác của khỉ vượn mà hợp thành.
Hình thái, động tác của Hầu quyền có thể khái quát là: Cương, nhu, nhẹ, linh hoạt, mềm mại, khéo, nấp, né, vươn, co. Thủ pháp thì có tóm, duỗi, chọn, cắt, giảo (hoạt), bắt, khép, đẩy… Cước pháp có quấn, dậm, tạt, bật, về khí giới có các bài múa hầu côn, hầu kiếm… Đại diện hình ảnh lớn nhất của Hầu quyền chính là nhân vật Hầu vương Tôn Ngộ Không nổi tiếng trong phim Tây Du Ký (sản xuất 1986) do nhân vật Lục Tiểu Linh Đồng – người đang là ứng cử viên Đại sứ Văn hoá Trung Quốc – Việt Nam.
2. Xà quyền (Quyền Rắn):
Xà quyền (còn gọi là Xà hành quyền) vì bắt chước hình, thần, ý, kình của rắn mà có tên. Về nguồn gốc cũng khác nhau. Thời Minh, quyền Thiếu Lâm, Nam quyền trong đó đã có Xà quyền. Đời Thanh trong Hình ý quyền, Bát quái chưởng đã có xà hình. Các nơi như tỉnh Chiết Giang, Quảng Tây, Phúc Kiến, Giang Tô, Hồ Nam, Giang Tây cho đến Hồng Kông, Đài Loan cũng đều truyền tập.
Đặc điểm kỹ pháp của Xà quyền là: Trong nhu có cương, trong tĩnh có động, ý ngụ ở phép (pháp), thân linh (động), bộ hoạt (bát), mắt sắc tay nhanh. Về kỹ pháp có đánh mở màn, đánh tĩnh, đánh dụ, đánh mạnh, đánh chạy, đánh đám đông, đánh lớn, đánh liều giành thắng trong bại…
Xà quyền có giá trị thực dụng tương đối cao, trong chiến đấu thật sự thì yêu cầu: “Thân phải lắc lư, bộ phải chuyển, hai tay chợt né vươn mà đánh, bước vòng vèo bước (bộ) hợp thân; dùng chỉ (ngón tay) thọc hầu (cổ họng) nhanh mà chuẩn, hai rồng vờn ngọc chưởng cắm sườn, tay chợt mổ vào chợt đánh đỉnh; chân nhón điểm, vuốt hổ tiến, tiến nhanh ứng chậm khéo mềm vờn. Khi phát kình hét lên tiếng trợ thế, lấy khí thúc kình, lấy mắt chuyển thần”.
Xà quyền có các bài múa chủ yếu là: Xà thần luyện nguyệt (Rắn thần luyện trăng), Kim xà lục khởi (Rắn vàng từ đất nhô lên), Xà phiên thiên chân (Rắn quật động trời, Bạch xà phẫn mạt (Rắn trắng phun bọt), Xà đằng tẩu lộ (Rắn lăng lướt sương, Giác xà ứng vĩ (Rắn sừng quẫy đuôi)… Về khí giới có Xà hành đao, Xà hành kiếm…
3. Tuý quyền (Quyền say)
Còn gọi là “Tuý tửu quyền” (quyền say rượu), “Tuý bát tiên quyền” (quyền tám tiên say rượu) bởi theo thần thoại Trung Hoa có tám vị tiên bạn bè là Hán Chung Ly, Trương Quả Lão, Lã Động Tân, Lý Thiết Quải, Hàn Tương Tử, Lam Thái Hoà, Hà Tiên Cô, Tào Quốc Cữu thường xuyên say rượu ngả nghiêng, vân du bốn cõi. Vì khi di chuyển, chiêu thế bước như người say rượu nên gọi là “quyền say”. Ý say, hình say được mượn ở điêụ “múa say” thời cổ đại mà Trương Khổng Chiếu đã có ghi bài “Tuý bát tiên ca” trong sách “Quyển kinh, quyền pháp bị yếu”.
Loại quyền này thịnh hành ở các tỉnh Tứ Xuyên, Thiểm Tây, Sơn Đông, Hà Bắc, Bắc Kinh, Thượng Hải và vùng Giang Hoài. Tuý quyền là loại quyền pháp địa thuật, với hình dạng như say mà sừng sững như ngọn cờ riêng biệt. Về phong cách thì có ba loại: trọng hình, trọng kỹ thuật và cả trọng hình lẫn kỹ thuật. Đặc điểm là hình say, ý không say; bước say, tâm không say. Tựa như say mà giữ thế, lấy say mà lừa người, lấy say để ra đòn.
Về kỹ pháp yêu cầu: mắt, tay, chân, bộ pháp cùng phối hợp. Về nhãn pháp (mắt) thì có nhìn, ngắm, coi qua, liếc xéo. Về chỉ pháp thì có điểm, che, bổ, tóm, lừa, ngắt, khép (ngón tay). Về thủ pháp có áp sát, thúc, ép, dựa. Về thoái pháp thì có móc, gác, xoay, cắt, nâng, dậm, bật, quấn. Về phép ngã có ba loại: Ngã nửa vời, ngã hẳn và ngã hoá giải nguy hiểm.
Phép dùng thì chú trọng mắt sắc tay nhanh, hình say ý tỉnh, tuỳ cơ chọn thế, tránh thực đánh hư, né gạt tiến thân, ngã thúc ra chiêu. Ca quyết (lời ca mang bí quyết) là: “Đảo điên nuốt nhả, nổi chẳng ngã. Ngất ngưởng té thúc lật lăn khéo. Lăn tiến mà cao, lăn ảo diệu, tuỳ thế sấp ngửa người khó theo”.
Các bài múa lưu hành có Tuý Bát tiên, Thái Bạch tuý tửu, Lỗ Trí Thâm tuý đả Sơn môn (Lỗ Trí Thâm say đập cổng chùa)…
Hiện trên cơ sở Tuý quyền còn phát triển ra Tuý kiếm, Tuý côn, các bài đánh đôi Tuý hán hý hầu (chàng say trêu khỉ). Qua những liệt kê trên cho thấy Tuý quyền là sự kết tinh đạt tới mức ảo diệu những sáng tạo võ thuật của con người dựa trên thực tế cuộc sống.
4. Đường lang quyền (Quyền Bọ ngựa):
Đây là môn quyền thuật bắt chước hình thái động tác của bọ ngựa. Tương truyền cuối đời Minh, đầu đời Thanh ở huyện Tức Mặc tỉnh Sơn Đông có người tên là Vương Lang, sau khi thi võ thất bại, ngẫu nhiên thấy cảnh con bọ ngựa vồ bắt ve sầu bèn sáng tạo ra các kỹ pháp võ thuật như móc, nhấc, gác, lừa, quấn, bổ, trượt… rồi hình thành môn quyền này, đó là phái Đường lang Bắc lưu hành một giải Sơn Đông, Giao Châu.
Qua thời kỳ tập luyện mà hình thành nên các loại lưu phái. Có Thất tinh Đường lang (còn gọi là La Hán Đường lang), Mai hoa đường lang (còn gọi là Thái cực đường lang). Các bài múa kết cấu nghiêm ngặt, nối tiếp khéo léo, sẵn có cương nhu cùng nặng, cương mà không cứng đơ, nhu mà không mềm oặt, kết hợp ngắn dài…
Về kỹ pháp nổi bật “năm nhanh” là nhanh tay, nhanh chân, nhanh bước, nhanh thân, chiêu thức nhanh. Ngoài ra còn thuyết “bảy dài, tám ngắn”. Dài là ý dài, khí dài, kình dài, tay dài, hông dài, bước dài, gân dài (tức vươn dẻo được). Ngắn thì có đốt (tiết) ngắn, thế ngắn, tâm ngắn. Cao đánh thấp không đánh, gần đánh xa không đánh, mở đánh, đóng không đánh, cương đánh nhu không đánh, tiến đánh lùi không đánh, hư đánh thực không đánh…
Ngoài ra còn có Nam phái Đường Lang tương truyền do Chu Á Nam người Quảng Đông sáng tác vào đời Thanh. Về lý, pháp, thế so với của Bắc phái tuyệt nhiên không giống. Đường lang Nam phái có:
* Thất tinh Đường lang quyền (còn gọi là La hán Đường lang) thuộc loại ngạnh (cứng) đường lang. Giá thế cơ bản thì lấy thất tinh bộ làm cơ sở. Kình lực cứng gọn, quấn ngang đâm thẳng. Luyện công chia làm 3 phần: Thứ nhất là cơ bản công, bao gồm hông, vai, chân, bá đả công… Thứ hai là bài múa bao gồm tổ hợp nhỏ các động tác múa. Thứ ba là sách luyện (luyện mở rộng) gồm tạp trang (dậm tấn), thích đả sa đại (đá bao cát), bày luyện toàn thân 12 lượt tán đả.
* Mai Hoa đường lang quyền (còn gọi là Thái cực Đường lang): thuộc loại ngạnh đường lang, công phu cứng rắn. Loại quyền này lấy tam hảo thủ làm chiêu số riêng, tức là khi ra tay thì ba, năm đòn ra liền một thể giống như hoa mai năm cánh nên thành tên.
* Lục hợp Đường lang (còn gọi là Mã hầu đường lang): Thuộc nhuyễn đường lang, công phu mềm dẻo theo đường âm nhu. Loại quyền này nhấn mạnh nội ngoại tương hợp, động tác thì thường là nhu, kình lực dài chia rõ năm loại kình lực là cương, nhu, minh, ám, hoạt (tức là cứng, mềm, rõ, ngầm, trơn tru).
5. Ưng trảo quyền:
Vì lấy theo hình, ý, cách vồ đánh của chim ưng mà thành tên. Theo đó, vào giữa đời Thanh ở huyện Hùng (tỉnh Hà Bắc) có người tên Lưu Sĩ Tuấn sáng tạo ra, các truyền nhân đời sau lấy Phiên tử quyền dung hạp với Ưng trảo quyền mà phát triển thành một hệ phái lớn với tên gọi “Ưng trảo phiên tử môn. Truyền nhân là Trần Tử Chính từng truyền dạy rộng rãi môn quyền này ở Tinh Võ hội Thượng Hải. Hiện nay quyền này lưu hành ở Hà Bắc, Bắc Kinh, Hồ Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Quảng Tây, Quảng Đông… và lưu truyền rộng rãi tại các nước Đông Nam Á cũng như tại châu Âu, châu Mỹ.
Đặc điểm của loại quyền này là tư thế hùng dũng, tay mắt sắc bén, thân bộ linh hoạt. Phép luyện chú trọng hụp né đa biến, nhanh chậm xen nhau, mắt đưa tay đến, ý đến lực đến. Phép đánh thì doạ trên hạ dưới, trong móc ngoài hờ, dứt gân bẻ xương, kết hợp vồ với đánh. Thủ pháp thì có tóm, rứt, khoá, dựa, gạt, cắt, ngăn, bọc, chú trọng vồ tóm là chính. Về thoái pháp có dậm, bật, khều, hất, quấn, xuyên, liên hoàn cước cùng lật, lăng, nhảy, vọt… Thân pháp có cúi, ngửa, vặn, xoay, vươn, co, né, sải… Kình lực chú trọng tập Ưng tảo công và trang công (luyện tấn). Về bài bản có Ưng trảo quyền, Bát bộ truy, ngũ thập liên quyền, thập nhị lộ hành quyền…