Dụng pháp của bàn chân trong Thái Cực Quyền

Dụng pháp của cước có ba phần: Phân cước, Ðắng cước, Bãi liên cước (còn gọi là Bãi liên thối).

Phân thế trong Thái Cực Quyền
Giải mã hai chữ “Thái Cực” trong Thái Cực Quyền

1. Phân cước: Chia làm tả hữu phân cước. Phân cước còn gọi là Xí cước, vì khi hai chân trái, phải đá mũi ra giống như chim duỗi cánh vậy. (Xí nghĩa là cánh chim).

2. Ðắng cước: Chia ra tả hữu Ðắng cước, cộng cả thảy năm lần. Lúc lyện tập, toàn bàn chân gập lên, đá ra bằng lòng bàn chân. “Ý ” đặt tại lòng bàn chân.

3. Bãi liên cước: Còn gọi là Bãi liên thối. Dụng pháp tại cước chớ không phải tại thối (chân, không kể bàn chân) nên gọi là Bãi liên cước thì đúng hơn. Bãi liên cước chia làm Ðơn Bãi liên và Song Bãi liên. Ðơn Bãi liên là dùng một tay vổ nhẹ trên các ngón chân lúc đưa chân lên đá ngang qua. Song Bãi liên là dùng hai hai bàn tay vổ lên mũi bàn chân. Bất luận đá đơn hay song, thì đường di động của chân là đường tròn , cạnh ngoài của bàn chân có dùng sức.

Về dụng pháp của bàn chân, chủ yếu có ba dạng nói trên. Do đó ở sự truyền dạy bất đồng, sự thực hiện có thể có chút ít dị biệt nhưng vẫn là đại đồng, không cần nói rườm rà.

tai-chi

     Lúc dùng cước nên chú ý:

 1. Ðứng vững, vì lúc dùng chân đá phải nhất chân lên, chỉ còn một chân đứng , người mới học gót chân không có sức , thường hay mắc lổi ngã nghiêng, đây là biểu hiện của công phu non kém; muốn tránh lổi này phải tập đứng vững một chân , rồi mới treo chân kia lên đá , lâu ngày thì mới đứng vững được.

2. Phân thanh hư thực , chân đúng như trồng cọc là thực, còn chân kia treo lên là hư; mà ngay như trong phạm vi của chân treo lên đó cũng chia làm hư thực, khi Phân cước thì mũi bàn chân là thực, khi Ðắng cước thì lòng bàn chân là thực, kỳ dư là hư cả.

3. Không dùng kình cương , lúc dùng chân , dùng bàn chân dễ sinh ra kình cương , như vậy chuyển động không linh hoạt , khí huyết không thông . Ðể tránh lối này, các quan tiết toàn người, nhất là háng, đầu gối, cổ chân phải buông lỏng, cơ nhục cũng buông lỏng , tình tự bình ổn trấn tĩnh.

4. Treo chân không quá cao , duỗi chân không quá thẳng , không quá cao mới dễ ứng dụng mà không bị địch thừa cơ lợi dụng , duỗi không quá thẳng để mà chứa kình đợi khi phát ra mới dễ. Cổ nhân bảo: “Kình dĩ khúc súc nhi hữu dư “, tức là phải giử đúng nguyên tắc “khúc súc” (chứa đựng trong cái cong) mới có dư kình lực , nếu như duỗi thẳng thì cơ nhục sản sinh ra kình cương mất .

5. Lúc Xí cước hoặc đắng cước cần phối hợp với động tác hít vào.

6. Treo chân lên , buông chân xuống phải từ từ và phối hợp với hai tay cho có tương tùy.

Q.B (Sưu tầm)
Nguồn: Maxreading