Kitaeru được coi như một trong những truyền thống cần phải bảo tồn cùng với nhiều bộ môn nghệ thuật khác để duy trì tinh thần đặc thù của người Nhật. Lẽ dĩ nhiên rèn không phải nói về nghề thợ rèn một cách tổng quát mà là kỹ thuật rèn kiếm, một truyền thống lâu đời được coi trọng, vì thanh kiếm không phải chỉ là một món khí giới mà còn tượng trưng cho tinh thần cao thượng của võ sĩ đạo.
Katana đã được ra đời như thế nào?
Thanh katana và sát thủ zombie trong the walking dead
Thanh kiếm của người Nhật không phải chỉ là một lưỡi dao dài dùng làm vũ khí mà mang theo rất nhiều ý nghĩa. Trong quá trình chế tạo, người ta không những phải thử để xem nó có đủ sắc để xuyên qua nhiều lớp áo giáp bằng sắt mà có khi còn thí nghiệm ngay trên thân xác con người để coi có “ngọt” hay không?
Người Trung Hoa cũng như người Việt Nam cũng chú trọng đến kiếm nhưng quá lắm chỉ coi như một kỹ năng cần điêu luyện, trái lại người Nhật lại nâng thanh kiếm và cách sử dụng lên hàng “đạo” – kiếm đạo (kendo) – và thanh kiếm gắn liền với sinh mạng và nhân cách của người kiếm sĩ (samurai).
Trong khi kiếm Âu Châu chỉ là một lưỡi thép duy nhất, kiếm Nhật bao gồm lá thép, sắt non và thép già, mỗi loại có hàm lượng carbon khác nhau. Lõi của thanh kiếm (shingane) được rèn bằng cách pha trộn giữa sắt thô với thép lá. Sau đó mới là vỏ bao bên ngoài (hadagane) cái lõi đó cũng bằng kỹ thuật trên nhưng dùng sắt non và thép lá. Vỏ bao có thể cần dát ra rồi gập lại 15 lần nhưng nếu nhiều hơn nữa có thể làm thép trở nên dòn và không đều. Lưỡi kiếm sau đó được chêm vào giữa những lớp vỏ bao, rèn cho thật liền lạc khít khao. Lớp vỏ mềm giúp cho cái lõi cứng ở bên trong, khiến cho lưỡi kiếm chịu được va chạm mạnh, dẻo dai hơn kiếm đúc theo kiểu Âu tây.
Người Nhật cũng dùng phương pháp bao một lớp vỏ mềm bên ngoài để tạo nên những làn sóng trang điểm cho lưỡi kiếm. Khi ruột kiếm đã chèn vào giữa và hình dạng đã hoàn thành, một loại hợp chất đặc biệt gồm tro rơm và bùn đỏ được trét lên trên mặt lưỡi kiếm rồi để cho khô. Sau đó người ta dùng một thanh tre để khắc lên lớp bùn những hoa văn rồi lại để vào trong lò nung tiếp, lấy ra khắc theo mẫu lên lưỡi kiếm để đến khi chà láng những hình vẽ đó sẽ hiện ra. Trong giai đoạn này lưỡi kiếm được bao bằng đất và tro kia phải nóng đến mức có “màu của Mặt Trăng tháng 2 hay tháng 8”. Lớp bùn đó chỗ dày chỗ mỏng, thường ở lưỡi kiếm mỏng nhất, các nơi khác dày hơn để khi nung lưỡi kiếm sẽ cứng mềm khác nhau tuỳ theo từng khu vực. Lưỡi thép, phần cứng nhất của thanh kiếm mà người ta gọi là hamon có những hạt khác nhau gọi là nie và nioi. Nie (nước sôi) tượng trưng cho tinh thần hùng dũng, cứng cỏi, nioi (hương thơm nhìn được) tượng trưng cho sự cao thượng, quý phái. Những hạt này có được do sự gập đi gập lại và cũng là một thứ dấu hiệu của mỗi trường vì mỗi phương pháp có những vân riêng. Nioi mắt thường không trông thấy, chỉ gợn lên một làn sương mỏng như giải ngân hà một đêm sao. Hạt nie thì to hơn, trông lấm tấm như móc buổi sáng hay một chùm tinh tú. Những ba văn (hamon) đó được đặt tên, hoặc mây, sóng biển, dãy núi, hoa… cũng giống như người Trung Hoa đặt tên cho vân trên bảo kiếm của họ. Người thợ không phải chỉ đúc một thanh kiếm tốt mà còn làm sao cho mỹ thuật, đó mới thực là vấn đề.
Nét cong của thanh kiếm Nhật không phải chỉ do kỹ thuật rèn hay đập mà còn là một biểu trưng văn hoá xuất hiện trên nhiều công trình truyền thống khác, từ mái cong trên đền đài, chùa chiền, cung điện, kể cả thư pháp. Người Nhật vẫn cho rằng nếu đúc một thanh kiếm thẳng băng thì không những thô kệch mà còn quá thực dụng, không nói lên tính nghệ thuật của người võ sĩ. Chính vì thế, họ luôn luôn tạo những đường cong, uốn lên lượn xuống để biến một vũ khí chiến đấu thành một tác phẩm. Tiến trình rèn thép, các loại chất liệu trong mỗi giai đoạn đến nay vẫn còn là những bí mật nghề nghiệp không truyền ra ngoài và cũng là thước đo sự tài hoa, khéo léo cũng như “tay nghề” của các bậc sư.
Nhắc đến nghề rèn kiếm, không thể không nhắc đến Masamune và Muramasa. Masamune còn được gọi là Goro Nyudo Masamune (thầy tu Goro Masamune) và là một trong những thợ rèn kiếm giỏi nhất trong lịch sử Nhật Bản. Mặc dù không có nhiều tư liệu lịch sử về cuộc đời của Masamune nhưng người ta tin rằng ông sống trong những năm cuối thế kỉ 13 đầu thế kỉ 14 tại tỉnh Sagami. Tại Nhật Bản, giải thưởng mang tên Masamune luôn được dành cho những thợ rèn kiếm xuất sắc nhất.
Những thanh kiếm của Masamune luôn đẹp và cực kì sắc bén mặc dù khi đó thép rèn kiếm có chất lượng rất tồi. Ông được xem là người đã đem lại sự hoàn hảo cho nghệ thuật rèn kiếm.
Mỗi thanh gươm của Masamune làm ra luôn được đặt tên và là một tác phẩm nghệ thuật. Biểu tượng của lãnh chúa Tokugawa, thanh gươm “Honjo Masamune”, là một trong những thanh gươm nổi tiếng nhất của Masamune.
Những thanh gươm của Masamune thường rất khác biệt với các tác phẩm của Muramasa một thợ rèn kiếm nổi tiếng khác của Nhật Bản. Nhiều tài liệu đã cho rằng Muramasa là học trò của Masamune nhưng thực chất hai ông không sống cùng thời. Muramasa bắt đầu nổi tiếng trong những năm đầu thế kỉ 15. Trong các trò chơi, Muramasa thường là những thanh ma kiếm khát máu, trong khi Masamune lại là thánh kiếm tiêu diệt cái ác.
Có một câu chuyện kể về cuộc thi giữa Muramasa và Masamune xem ai là người rèn kiếm giỏi nhất. Cả hai đều làm việc không mệt mỏi để hoàn thiện tác phẩm của mình. Sau khi hoàn thành cả hai thanh gươm được đem ra thử nghiệm. Thanh gươm của Muramasa có tên là Juuchi Yosamu (10.000 đêm lạnh) và của Masamune là Yawaraka-Te (Bàn tay nhân ái).
Người ta cắm chúng xuống một dòng suối. Thanh gươm của Muramasa cắt tất cả những gì lướt qua nó từ lá cây, những con cá thậm chí còn chia đôi cả dòng nước. Còn thanh kiếm của Masamune thì không cắt bất cứ thứ gì. Sau khi thấy kết quả Muramasa đã lên tiếng cười nhạo cho rằng tài nghệ của Masamune quá kém cỏi.
Nhưng một nhà sư sau khi chứng kiến cuộc thi đã giải thích: thanh gươm đầu tiên cắt tất cả là một thanh gươm sắc nhưng nó là thanh gươm khát máu, không phân biệt được người tốt kẻ xấu. Thanh gươm thứ hai là mới thực sự là thanh gươm báu vì nó không làm tổn thương đến những sinh linh vô tội.
Có một kết thúc khác của câu chuyện đó là cả hai thanh gươm đều cắt mọi thứ lướt qua. Nhưng chiếc lá bị chia đôi bởi thanh gươm của Masamune đã liền lại ngay. Thanh Yawaraka-Te được coi là thanh kiếm phục sinh trong khi của Muramasa là thanh gươm của chết chóc. Đã là kiếm sĩ, không ai là không mơ ước được sở hữu một trong hai thanh kiếm trên. Kết quả thì giống nhau: họ sẽ trở thành những tay kiếm độc bá thiên hạ nhưng hậu quả của những ai sở hữu thanh tà kiếm Yuuchi Yosamu của Muaramasa thì thật khủng khiếp: người sử dụng ngày càng bị thanh tà kiếm không chế, cuối cùng trở nên điên loạn, sẵn sàng giết chết bạn bè, vợ con và thậm chí cả bản thân mình mà không hề run tay.
Mặc dù câu chuyện trên chỉ là tưởng tượng nhưng cả Masamune và Muramasa đều được coi là những biểu tượng về nghệ thuật rèn kiếm của Nhật Bản.
Tô Thiện (tổng hợp)