Những sự thật về Đàm Thoái Quyền của Bắc Trung Hoa

Đàm thoái quyền hay còn gọi là Đàm thối quyền, là căn bản võ thuật của miền Bắc Trung Hoa thịnh hành ở lưu vực sông Hoàng Hà.

Nguồn gốc.

Có thuyết cho là  Đàm thoái có nguồn gốc do một vị cao tăng từ chùa Long Đàm ở Sơn Đông truyền thụ. Một thuyết khác lại cho rằng Đàm Mỗ ở Đàm gia Câu tỉnh Hà Nam sang tạo ra. Đàm thoái thịnh hành vào khoảng giữa và cuối đời nhà Thanh, hiện nay được dùng làm bài ản luyện tạp cơ bản về chuyên môn đòn chân (Thoái công phu).

Các tài liệu tiếng Anh của người Trung Hoa viết cho viết môn quyền này tích hợp các môn Trường quyên của Bắc Thiếu LÂm và các quyên thức của người theo đạo Hồi tại miền Băc Trung Quốc.

Môn quyền này do sử dụng các đòn chân (cước pháp hay thoái pháp, có khi đọc là thối pháp) rất nhiều trong các bài.

Dùng các từ đàn và thối có lẽ đúng nghĩa hơn, và cũng gần với phiên âm và dịch nghĩa trong tiếng Anh.

tantui1

Đàn có nghĩa là đàn lực (lực đàn hồi) có bộ bật mạnh và xa như dây cung phát mũi tên bay xa vậy.

Thối có nghĩa đúng hơn là Thoái, Thối là từ ngũ mà người phương Băc (Trung HOa) hay dung ám chỉ Cước là các đồn chân trong khi Thoái có nghĩa là thoái lui, là lùi bước.

Nhưng do lâu ngày danh từ Đàm Thoái đã trở nên quen tai người nghr nên cũng khó sửa.

Môn này tương truyên có hai lưu phái là Đàm Thoái và Đàn Thoái. Tên tuy gọi khác nhau nhưng kỹ thuật cũng là một và hơi khác biệt nhau đôi chút.

Đàm Thoái Quyền có tổng cộng 12 đường quyền đươc đưa vào chương trình chính khoác trong các trường tiểu học và trung học tại miền Bắc Trung Hoa từ đầu thế kỷ hai mươi dưới thời Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch và trở thành tài liệu giảng huấn chính thức của Tinh Võ Thể Dục Hội tại Thượng Hải. Giáo trình này cũng được giảng dạy chính thức tại Trung Quốc Thể Thao Học Hiệu bắt đầu từ Nam Trung Hoa Dân Quốc thứ nhất là nơi dạy môn này đầu tiên tại Hoa Lục bơi Lưu tiên sinh và Trương tiên sinh, hai bậc thầy nổi tiếng tại hộc hiệu. Sau hơn 10 năm truyền dạy, môn này đã thình hành khắp miền Nam Bắc Trung Hoa Đại Lục. Bắc phái tập dung tương đối nhiều hơn.

hình 2

Theo tài liệu của giáo sư Vũ Đức thì lại có ghu chú khác như sau:

“… Môn võ Đàm Thoasihay còn gọi là Đàn Thoái được du nhập vào Trung Hoa, từ nhữn người theo đạo Hồi ở Tây Tạng, khoảng thế kỷ thứ mười bốn, rất thịnh hành ở tinh Sơn Đông, Hoa BẮc. Về kỹ thuật, môn này có hai nhánh. Những người theo học 12 lộ quyên thường gọi là Đàm Thoái. Còn những người theo học 10 lộ quyền lại gọi là Đàn Thoái. Vào thời nhà Thanh, Hoắc Nguyên Giáp, người ở Hà Bắc, xuống phương nam sang lập Tinh Võ Thể Dục Hội ở Thượng Hải, và phổ biến môn Đàm Thoái, rất đông người theo học. Về sau, Mã Vĩnh Trinh, nhân vật này sau này được cac hãng phim Hồng Kong chuyển thể hư cấu vào bộ phim cùng tên vào nhwuxng năm đầu thế kỷ 1970, là người nổi tiếng giỏi nhất về môn Đàm Thoái ở Thượng Hải…”

Phép sử dụng đòn chân của Đàm Thoái Quyền được chia làm ba loại: Thượng ban thối, Trung ban thối, và Hạ ban thối.

12 đương quyền của Đàm Thoái Quyền có động tác rất giản dị nhưng hiệu quả, thích hợp nhất đối với những người mới luyện tập võ thuật.

Các phái võ thuộc miền Bắc Trung Hoa rất chú trọng các đòn chân (Thoái pháp hay Thối pháp) nên học võ đầu tiên là phải học  Thoái pháp.

Đặc trưng kỹ pháp.

Xuất thủ tấn công (ra đòn) thật nhanh, đường kình gọn, bật (nên gọi là Đàn thoái) mà thành tên. Gần đây đã phát triển thành một thể hệ độc lập được gọi là “Đàm thoái môn” hoặc là “Đàm thoái”.

Đặc điểm kỹ pháp là tư thế và các động tác đường quyền đơn giản, tinh luyện, thiết thực, không màu mè hoa sói, tầng lớp chính thứ phân minh, một lộ (đường) một pháp (phép) có trước có sau, trái phải đối xứng, thủ pháp nhanh, dũng mãnh, chính xác và hiệu chuẩn, thoái pháp cương kình có lực bật co duỗi mạnh mẽ như sức bật dây cung, quả nhiên là theo phép tắc căn bản của Thiếu Lâm quyền. Các bài chủ yếu có: sáu lộ đàn thoái, 10 lộ Đàn thoái, 12 lộ Đàn thoái v.v…

hình 5

Mười lộ Đàn thoái thì tư thế thấp chân bằng (cao ngang đũng quần) tức là: lộ một thuận bộ (tấn), lộ hai mười chữ, lộ ba bổ giả (phách tạp), lộ bốn cắm (chống trơn, “sanh hoạt”), lộ nắm giá đánh (giá đả), lộ sáu liên hoàn, lộ bảy che mài (cái ma), lộ tám thúc khoá (bàng toả), lộ chín xuyên tâm, lộ mười tên bật (tiễn đàn).

Clip tư liệu về Đàm Thoái Quyền

Mười hai lộ Đàn thoái thế cao chân thấp (cao không quá gối nên gọi là “tấc chân”– “thốn thoái”) tức là: lộ một xung chùy (nắm đấm hay đầu gậy gõ mạnh), lộ hai thích đả (đả đánh), lộ ba phác trát (bổ đâm), lộ bốn sanh bác, bát (chống bóc, hất), lộ năm trắc truỳ, xuyến (đạp hất ra), lộ sáu đơn triển (vươn, một bên), lộ bảy song triển (vươn hai bên), lộ tám đơn tọa (đôn là đống đất, toạ là ngồi xổm), lộ chín bàng toả (giã khoá), lộ 10 tiến bộ (bước cắt) đàn (bật), lộ 11 thang thoái, lộ 12 hoành lôi (đánh ngang).

Đàn thoái là môn học ban đầu để học nghệ cũng là căn bản cứ để thăng hoa tài nghệ được các nhà quyền thuật cổ kim rất coi trọng. Quyên Ngạn bảo: “Đàn thoái bốn cánh tay, người sợ quỷ thần sầu”.

Hinh 4

Đàm thối có điểm tương đồng với một bộ môn quyền pháp cùng trong họ quyền thuật miền Bắc Trung Hoa là môn Trốc cước là cả hai môn đều dùng đòn chân (thoái pháp) nhưng hai môn này có kỹ pháp hoàn toàn khác nhau, các chiêu thức cước pháp cũng khác.

Võ Đạt