Đối với một Samurai Nhật Bản, thanh gươm võ sỹ đạo được xem như là một tài sản quý giá nhất, và thậm chí là một phần cơ thể của họ.
Hiện nay Samurai không còn là từ thường xuyên được người Nhật Bản nhắc đến, thanh kiếm Samurai vì thế mà cũng ít xuất hiện trong cuộc sống của người dân xứ sở hoa anh đào hơn, nhưng vẫn có những người bản xứ vì đam mê giá trị văn hóa dân tộc mà sưu tầm những thanh kiếm quý.
Dân ngoại quốc, đặc biệt là dân Mỹ cũng rất chuộng kiếm Samurai mà không ngần ngại bỏ ra vài nghìn USD để mang về một thanh kiếm tuyệt hảo. Thanh kiếm Samurai hiện nay chỉ mang ý nghĩa lịch sử. Người ta tìm kiếm những thanh kiếm cổ, hoặc giả là những thanh kiếm mới nhưng có trang trí nghệ thuật đặc sắc để hoàn thiện bộ sưu tập của mình.
Nhật Bản có lịch sử phát triển hàng ngàn năm. Nhiều người cho rằng người Nhật mang trong mình dòng máu Mông Cổ pha trộn với nhiều nhóm người di cư đến từ đại lục. Một số khác thì cho rằng tổ tiên của người Nhật là người Cap-ca-dơ mà những người còn sống hiện nay ở Hô-cai-đô là những hậu duệ.
Chiến tranh giữ vai trò quyết định trong lịch sử phát triển của xã hội Nhật Bản. Sự thay đổi và hình thành giai cấp ở nước Nhật thời phong kiến chịu chi phối bởi các cuộc chiến tranh cát cứ giữa các thị tộc nhằm tranh giành đất đai, vì trên lãnh thổ nước này chỉ có 20% diện tích đất phù hợp với canh tác nông nghiệp. Chính những cuộc chiến đó đã sản sinh ra khái niệm Samurai (tạm gọi là võ sỹ).
Khái niệm này lần đầu xuất hiện vào thời Kamakura (1185 – 1333), để chỉ một đẳng cấp cao trong tầng lớp thống trị phong kiến. Sau này từ Samurai được dùng để chỉ tất cả các chiến binh Nhật.
Tuy nhiên ở thời đó, Samurai chỉ để gọi tên một số người, như một đẳng cấp cao quý. Người ta cho rằng Kamakura là thời đại nổi tiếng về lòng trung thành, ý chí quật cường, sự liêm khiết và lòng sùng bái tinh thần thượng võ của các võ sỹ cũng như cư dân xứ sở Anh đào. Thời kỳ đầu, các Samurai tập trung nghiên cứu cung thuật.
Trải qua chiến trận, các chiến sĩ Samurai ngày càng trở nên tinh thông bộ binh và kỵ binh, quyền thuật và thương thuật. Họ chỉ dùng gươm khi đánh giáp lá cà và để lấy thủ cấp của đối phương chiến bại. Nhưng vào cuối thế kỉ XIII, những trận đánh với quân Mông Cổ đã khiến các Samurai phải thay đổi chiến pháp. Họ bắt đầu sử dụng gươm nhiều nhiều hơn, cũng như tận dụng các mũi nhọn và lưỡi gươm một cách hiệu quả. Các Samurai cũng chuyển từ chiến đấu trên mình ngựa sang tác chiến dưới mặt đất.Một Samurai thường sử dụng 2 thanh gươm (daito – katana): một chiếc dài, một chiếc ngắn. Chiếc dài (daito) khoảng 0,85m, chiếc ngắn (shoto-katana) khoảng từ 0,42m đến 0,85m. Họ tìm mọi cách dùng gươm chặt gãy chân ngựa của kỵ binh Mông Cổ.
Các võ sỹ thường đặt tên cho thanh gươm của mình. Họ coi đó là biểu tượng của tinh thần võ sỹ đạo của chính bản thân và dòng họ. Vì ý nghĩa thiêng liêng như vậy mà trước khi sử dụng kiếm, các Samurai thường làm nghi lễ thờ cúng trình thanh gươm lên trước các thần Shinto (theo quan niệm của Thần đạo Nhật Bản), đặt tên cho gươm và cầu mong điều may mắn.
Để thể hiện lòng trung thành và tinh thần quả cảm, các chiến binh Samurai thường dùng gươm mổ bụng để tự sát khi thất trận. Các chiến binh Nhật cho rằng thất bại là một điều sỉ nhục lớn nhất cho bản thân, dòng họ, môn phái và dân tộc mình nên vết nhơ đó chỉ có thể lấy cái chết mới gột rửa được.
Những thanh gươm cổ xưa nhất được làm “nhái” theo kiểu gươm Trung Quốc và Triều Tiên, có dáng thẳng lưỡi kép. Sau này vì đòi hỏi độ sắc bén và khả năng sát thương cao trong chiến trận, các Samurai đã sáng tạo ra kiểu gươm cong, lưỡi đơn đặc thù cho gươm Nhật Bản mà chúng ta thấy ngày nay. Kiểu gươm này có phần đầu làm bằng hỗn hợp sắt và cacbon.
Qua tôi luyện thủ công, những thanh gươm tốt nhất thế giới đã được ra đời chỉ bằng các phương tiện giản đơn như nước, lửa, đe và búa. Sau khi hoàn thành tôi luyện phần lưỡi, người thợ làm nốt những công đoạn còn lại như đốc gươm và đánh bóng làm đẹp. Tiếp theo, gươm sẽ được trải qua thử nghiệm bằng cách chặt đứt trực tiếp các thi hài chết hoặc các tử tù. Kết quả đánh giá gươm được người thợ rèn ghi trên phần Nakago (mẩu thép gắn kết lưỡi gươm và đốc gươm).
Tô Thiện (sưu tầm)