Kì 2: Sự khởi đầu của những chiến binh huyền thoại
Ban đầu các chiến binh này chỉ là tay sai của các lãnh chúa và các dòng họ quý tộc, nhưng dần dần, họ từng bước giành lấy quyền lực để lật đổ tầng lớp thống trị và lập ra chính quyền thống trị samurai đầu tiên trong lịch sử.
Khi các quý tộc địa phương đã chuẩn bị đầy đủ về lực lượng, lương thực, khí giới, họ liên minh với nhau với một tổ chức có phân cấp bậc, địa vị rõ ràng, đứng đầu là một Toryo, hay còn gọi là thủ lĩnh. Người thủ lĩnh này đặc biệt phải là họ hàng xa của Thiên hoàng, hay ít nhất cũng thuộc một trong ba dòng họ quý tộc (Fujiwara, Minamoto và Taira). Ban đầu các toryo được triều đình phong làm quan phủ ở các tỉnh lỵ trong thời hạn 4 năm, nhưng sau khi mãn nhiệm kỳ các toryo chẳng những không quay về kinh đô mà còn đem chức quan đó ra làm một thứ tài sản thừa kế cho thế hệ sau (theo kiểu cha truyền con nối) để tiếp tục lãnh đạo quý tộc địa phương đàn áp các cuộc nổi loạn trên khắp nước Nhật vào khoảng giữa và cuối thời Heian.
Nhờ binh lực hùng mạnh và tài lực vững chắc, đội quân của các quý tộc sau cùng đã trở thành một thế lực quân đội mới của triều đình. Quyền lực của họ đã được củng cố vững chắc sau cuộc nổi loạn Hōgen vào cuối thời Heian; và cũng từ đó mà dẫn đến hậu quả là sự đối đầu của hai gia tộc thù địch nhau Minamoto và Taira, trong cuộc nổi dậy Heiji vào năm 1160.
Sau nhiều chiến thắng vang dội, tướng Taira no Kiyomori trở thành chiến binh đầu tiên vươn tới chức Thiên hoàng quân sư, thậm chí nắm trong tay chính quyền trung ương, lập ra chính quyền thống trị samurai đầu tiên và biến Thiên hoàng thành một đấng quân vương bù nhìn. Dù vậy, dòng họ Taira vẫn tỏ ra khoan hòa, thận trọng trong quan hệ với dòng họ Minamoto; thay vì mở rộng và củng cố quân đội của mình, dòng họ Taira đã áp dụng chiêu “mỹ nhân kế”, đưa những phụ nữ trong gia tộc tiến cung và lợi dụng họ giành lấy quyền hành từ tay Thiên hoàng.
Hai dòng họ Taira-Minamoto lại tiếp tục đối đầu nhau vào năm 1180 với chiến tranh Genpei và kéo dài đến năm 1185. Chiến thắng của Minamoto no Yoritomo đã cho thấy sự thất bại của quý tộc trước các chiến binh samurai. Năm 1190 Yoritomo đến Kyoto; năm 1192 trở thành Seii Taishogun (chính dị đại tướng quân), thành lập chế độ Mạc phủ KamakuraMạc phủ Kamakura hay Kamakura Bokufu, dời đô từ Kyoto về Kamakura, gần căn cứ quân đội của ông. Bakufu có nghĩa là “chính quyền lều trại”, bởi hiện thời chính quyền mang tính chất là chính quyền quân sự và quân đội đều sống trong các khu lều trại.
Thời gian qua đi, dòng dõi samurai trở thành các chiến binh quý tộc (buke), trên danh nghĩa chỉ thuộc quyền cai quản của quý tộc triều đình. Khi các samurai bắt đầu học các thú tiêu khiển theo kiểu quý tộc như thư đạo, thi ca… thì các nhà quý tộc, ngược lại, bắt đầu sống theo kiểu samurai. Trải qua hàng loạt mưu đồ và những thời đại trị vì ngắn ngủi của các vị hoàng đế khác nhau, quyền lực thật sự giờ đây nằm trong tay các shogun và các samurai.
Mạc phủ Ashikaga và thời phong kiến
các dòng tộc samurai lao vào các cuộc tranh giành quyền lực diễn ra suốt thời Mạc phủ Kamakura và Mạc phủ Ashikaga.
Phật giáo Thiền tông được truyền bá rộng rãi trong giới samurai vào thế kỷ 13, giúp các võ sĩ gò mình vào khuôn mẫu đạo đức và vượt qua nỗi sợ hãi về giết chóc, nhưng tôn giáo phổ biến trong quần chúng nhân dân lại là Tịnh Độ Tông.
Năm 1274, nhà Nguyên đưa quân xâm lược Nhật Bản với 40.000 quân và 900 thuyền chiến tấn công từ phía bắc Kyushu. Nước Nhật chỉ đưa vỏn vẹn 10.000 võ sĩ samurai để đối phó. Mặt khác, quân xâm lược cũng bị choáng váng ít nhiều sau những trận dông bão trước khi bị các samurai giáng cho một đòn nặng nề. Quân Nguyên rút lui; cuộc xâm lược chấm dứt. Chiến thắng này được ghi nhớ bởi quân xâm lược Mông Cổ cũng sử dụng loại bom nhỏ mà sau này được cải tiến thành bom và thuốc súng của quân Nhật.
Quân Nhật nhận thấy sẽ lại có một cuộc xâm lăng mới, và bắt đầu xây dựng một phòng tuyến bằng đá sừng sững quanh vịnh Hakata vào năm 1276. Hoàn thành năm 1277, phòng tuyến này trải dài 20 km dọc theo bờ biển, sau này trở thành căn cứ phòng vệ trọng yếu trước sự xâm lược của quân Mông. Người Mông Cổ cố gắng dàn xếp vấn đề bằng đường lối ngoại giao suốt những năm 1275-1279, nhưng mỗi vị sứ giả được cử đưa đến Nhật đều bị xử tử.
Năm 1281, nhà Nguyên tiếp tục xâm lược Nhật Bản với đội quân 140.000 người và 4.400 thuyền chiến. Miền Bắc Kyushu được canh phòng với đội quân phòng vệ 40.000 người. Quân Mông chưa kịp hành quân vào đất liền thì gặp ngay một cơn bão to khi đổ bộ vào một hòn đảo ở Kyushy, tổn hất nặng nề. Một lần nữa quân Mông phải rút chạy sau những đợt phản kháng của quân Nhật ở phòng tuyến vịnh Hakara.
Những cơn dông năm 1274 và trận bão to năm 1281 đã giúp cho các samurai đẩy lùi quân xâm lược Mông Cổ dù chênh lệch về lực lượng rất lớn. Những trận gió này được biết đến với cái tên kami-no-kaze, tức “thần phong”, và càng khắc sâu niềm tin của người Nhật rằng đất nước của họ thuộc về thần thánh và được bảo vệ bởi các thế lực siêu nhiên.
Thế kỷ 14, một thợ rèn tên là Masamune đã cải tiến kết cấu hai lớp của thép mềm và thép cứng dùng trong việc rèn kiếm, giúp nâng cao lực cắt và tính bền. Kỹ thuật mới này đã giúp cho thanh kiếm Nhật Katana trở thành một trong những khí giới lợi hại nhất của thời kì tiền công nghiệp ở Đông Á. Nhiều thanh kiếm được xuất khẩu xuyên Đông Hải, một số được đưa đến tận Ấn Độ xa xôi.
Việc anh em trong nhà hãm hại lẫn nhau, giành địa vị con trưởng để thừa kế tài sản thường xuyên xảy ra ở thời kì này, trái hẳn với các điều luật trước thế kỷ 14, quy định tài sản thừa kế được chia theo công trạng của mỗi người. Các cuộc xâm lấn địa phận và xung đột, tranh cãi giữa các samurai xảy ra liên miên, trở thành một vấn đề đáng lo ngại suốt thời Mạc phủ Kamakura và Mạc phủ Ashikaga.
Thời kì Chiến quốc (Sengoku jidai) đánh dấu sự nới lỏng về đạo đức trong văn hóa samurai. Các tầng lớp xã hội khác thi nhau gắn lên mình cái mác võ sĩ và ung dung được mọi người kính trọng dưới tư cách một samurai. Vì vậy, tinh thần Võ sĩ đạo (bushido)trở thành một nhân tố quan trọng trong việc cải quản và ổn định xã hội trong thời kì hỗn loạn này.
Các chiến lược và trình độ kỹ thuật của Nhật phát triển rất nhanh vào thế kỉ 15 và thế kỉ 16. Quân đội chủ yếu là bộ binh có tên gọi là ashigaru (“túc khinh”, do chiến bào của họ rất nhẹ), gồm những võ sĩ có địa vị thấp kém và dân thường, được trang bị bằng giáo dài (nagayari) hay Naginata, phối hợp với kỵ binh tinh nhuệ. Số quân được huy động cho chiến sự dao động từ hàng ngàn đến hàng chục vạn người.
Súng hỏa mai, một dạng của súng trường, ban đầu được người Tây Ban Nha mang đến trên một chiếc thuyền hải tặc của Trung Quốc vào năm1543, và người Nhật Bản đã chế tạo được nó thành công trong vòng chưa đến 1 thập kỉ. Kể từ đó, các nhóm sản xuất súng hỏa mai đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong quân đội.
Cuối thời phong kiến, nước Nhật sở hữu hàng trăm ngàn khẩu súng ngắn và quân số khổng lồ lên đến hơn 100.000 người. Thậm chí quân đội Tây Ban Nha hùng mạnh nhất châu Âu thời bấy giờ cũng chỉ sở hữu vài ngàn khẩu súng ngắn và khoảng 30.000 quân. Các ninja cũng đóng một vai trò tích cực trong lĩnh vực tình báo.
Năm 1592, rồi lại năm 1598, Toyotomi Hideyoshi xua quân xâm lược Trung Quốc và đưa đoàn quân 160.000 samurai tiến đánh Triều Tiên , nhanh chóng chiếm ưu thế nhờ vũ khí lợi hại và quân đội tổ chức cao. Các tướng samurai nổi tiếng nhất trong cuộc chiến này là Kato Kiyomasa và Shimazu Yoshihiro.
Khi chế độ cũ bị lật đổ, cái tài xoay xở tháo vát của các samurai càng được thể hiện nổi trội trong mọi nỗ lực để duy trì thế lực quân sự và các tổ chức nhà nước trong phạm vi cai quản của mình. Đến thế kỉ 19, hầu hết các gia tộc samurai có nguồn gốc tổ tiên từ thời kì này đều tự nhận là dòng dõi của 4 dòng họ quý tộc thời xưa, Minamoto, Taira, Fujiwara và Tachibana. Và tất nhiên, thật khó để chứng minh điều đó.
Còn tiếp …
Thiện Tâm