Theo các bậc thánh hiền, một trong những phẩm hạnh cao quí nhất để hình thành nên nhân cách sống và tư chất của con người, đó là Lễ. Lễ vừa là phẩm giá, lễ nghi nhân bản, vừa là thể chế chính trị và qui phạm văn hóa đạo đức, mang thuần chuẩn đạo lý truyền thống của mỗi quốc gia và đóng giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong toàn bộ đời sống xã hội.
Đức công tâm của người làm trọng tài võ thuật
“Đạo” trong Võ cổ truyền Việt Nam
Lễ còn được coi là một trong những phương cách thiết thân, giúp con người tự tu tâm, dưỡng tính, khép mình vào lễ giáo và ngày càng nâng cao, hoàn thiện về nhân phẩm, nghĩa khí, trí huệ… Hay còn gọi: “Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí – Tín”.
Trước đây các bậc Thánh Đế, minh quân luôn đề cao chữ Lễ và tự răn mình: “Bề trên trọng Lễ, thì dân không ai dám không tôn kính, bề trên trọng Nghĩa, thì dân không ai dám không phục tùng, bề trên trọng Tín, thì dân không ai dám không ăn ở hết lòng”.
Dưới thời nhà Lê (Lê Thánh Tông) còn cụ thể hóa thành Luật (Luật Hồng Đức), qui định các hoàng thân, khanh tướng, quan chức từ Triều đình đến phủ, huyện phải nêu gương tốt, làm điều lễ nghĩa, khiêm nhượng, không nhận hối lộ, không hiếp đáp dân. Phải khuyên dạy vợ, con, gia đình làm điều nhân nghĩa, lễ giáo, giữ luân thường đạo lý, thuần phong, mỹ tục để khiến dân cùng làm theo. Còn trong gia đình, người gia trưởng phải tự mình gìn giữ lễ phép, tư cách để cho cả nhà bắt chước… (Theo sách “Việt Nam sử lược”).
Chính vì sự quan yếu, lớn lao như vậy, nên: “Việc cai trị dân mà chỉ dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khuôn phép, mà chỉ dùng hình phạt, thì dân có thể tránh được tội lỗi, nhưng không biết liêm sỉ. Còn nếu cai trị dân mà dùng cả đạo đức, đưa dân vào khuôn phép, mà dùng cả Lễ, thì dân sẽ biết liêm sỉ và thực lòng qui phục.
Chớ xem điều trái Lễ, chớ nghe điều trái Lễ, chớ nói điều trái Lễ, chớ làm điều trái Lễ. Một ngày mọi người biết chuyển mình theo Lễ, thì thiên hạ sẽ quay về Nhân vậy”.
Như vậy, Nhân và Lễ là hai mặt của một vấn đề. Nhân là chuẩn để qui định Lễ, Lễ là phương tiện hữu dụng để thực hiện Nhân (Nhân là nội dung, còn Lễ là hình thức biểu hiện). Nhân và Lễ là hai phạm trù cơ bản xuyên suốt, tương hỗ lẫn nhau, gắn kết mật thiết và theo trọn cả đời người, thậm chí sau khi chết vẫn còn nhắc đến (cả sự lễ phép, lịch lãm, nhân đức lẫn sự vô lễ, thô lỗ, nham hiểm).
Trong sách “Kinh Dịch” còn nâng cao thành “Lễ Ký”, “Thiên Lễ vận”, coi chữ Lễ là khởi nguyên của chữ Nhân, là giềng móng của thiện – ác, tốt – xấu. Có những nước đưa việc học (nghề) Lễ lên vị trí hàng đầu, trong toàn bộ chương trình truyền dạy lục nghệ thiết thân (6 nghề) cho các quan lộc Triều đình, tầng lớp quí tộc và các môn đệ kiên trung, rường cột của đất nước, gồm: Lễ, Nhạc, Xạ (bắn Cung), Ngự (đánh xe), Thư (viết chữ), Số (tính toán) để làm mực thước răn dạy, giáo dục, uốn nắn con người ngay từ tuổi còn rất nhỏ cho đến lúc xế chiều.
Một số chủ thuyết cổ xưa còn cổ súy cả việc lấy “Đức trị”, “Lễ trị” để hoạch định kế sách điều hành đất nước, nhiều khi còn nâng lên thành “quốc sách” an dân bền vững và trị vì thiên hạ lâu dài, nhất là trong những giai đoạn đất nước bị suy vong đạo lý, nền văn hóa, giáo dục bị pha tạp, lai căn, băng hoại, các chuẩn mực lễ giáo, nhân cách sống và thuần phong mỹ tục bị suy vi, đảo lộn (người nhỏ tuổi vô lễ với người cao niên, học trò thất lễ với thầy cô giáo, con cháu ngược đãi, thiếu lễ độ với ông bà, cha mẹ), cái ác ngày càng lấn át cái thiện, lòng người biến loạn, vơi cạn niềm tin nơi chính thể.
Ở nước ta, việc học Lễ còn quan trọng, thiết yếu hơn cả việc học văn nữa, nên trong giáo dục học đường có câu: “Tiên học Lễ, hậu học Văn”. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc, nhà văn hóa lớn của nhân loại, cũng đã đặc biệt nhấn mạnh và luôn nhắc nhở những người cán bộ, công chức phải luôn kính trọng, lễ phép với nhân dân. Sướng, nên sướng sau dân, khổ, nên khổ trước dân, không quan liêu, nhũng nhiễu, hách dịch, ức hiếp, vô lễ với nhân dân.
Mặt khác, Võ Lễ còn đóng giữ vai trò “cảnh tỉnh” và ngăn chặn hiệu nghiệm ngay từ đầu các mầm mống, hiểm họa khó lường của những kẻ “vô lễ”, “vô đạo” luôn thủ sẵn trong mình những ngón đòn độc hiểm, những thế võ “giết người” để sẵn sàng ra tay hãm hại, hiếp đáp, bắt nạt những người thế cô, sức yếu hoặc sử dụng võ, nhất là những bí quyết “tầm kinh điểm huyệt” như một công cụ trả thù hèn hạ và để làm điều bất nhân, bất nghĩa.
Trong thực tế, có một số người rất tài giỏi võ công, nhưng không được giáo huấn và tu tập võ Lễ, võ Đạo đến nơi, đến chốn nên đã lạc sang phường “võ tặc”, kết bè, kết cánh để đi cướp giật, đâm thuê, chém mướn, phá làng, phá xóm, triệt phá các môn phái khác hoặc phỉ báng, chia tách đồng môn, nuôi mộng “bá chủ đồ vương”, tự cho mình là “đệ nhất thiên hạ”, gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội, làm hoen ố thanh danh cao cả của con nhà võ, hạ thấp các giá trị thiêng liêng, truyền thống về võ Lễ, võ Đạo tốt đẹp của VCT dân tộc.
Có những người học thầy rồi vô lễ với thầy, phản thầy, phản cả tông môn, đồng đệ, thậm chí lập phe cánh tranh giành vị thế, ngôi vị trong môn phái, sẵn sàng thanh trừ lẫn nhau, có thái độ kiêu căng, hống hách, vô lễ với người cao niên, hiếp đáp người thế cô, sức yếu, sàm sỡ với phụ nữ. Nếu có ai đó phản ứng, chống lại, thì lập tức dùng những ngón võ đã học, sẵn sàng xuất thủ ngay.
Chính vì sự tác hại vô cùng lớn lao và luôn tiềm ẩn những bất trắc, hiểm họa khó lường đó, nên ngay từ khi VCT dân tộc mới định hình, Tổ tiên và các nhà nghiên cứu, hoạt động võ học tiền bối đã đặc biệt chú trọng đến võ Lễ, đưa nội dung giáo huấn, răn dạy võ Lễ trở thành một trong những nhiệm vụ thiết yếu trong toàn bộ hệ thống Võ học. Đồng thời ra sức nghiên cứu, kế thừa, bổ sung, xây dựng nội dung Võ Lễ thành một thuyết lý cơ bản, xuyên suốt, khai đề, mở lối, dẫn đường cho toàn bộ các qui phạm về định chuẩn, định hướng, nhằm đạt đến sự hoàn mỹ và cao đạo, uyên bác của võ học, giúp con nhà võ đạt đến năng hiệu “Ngũ thường”: Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí – Tín một cách đầy đủ và hoàn hảo. Trong đó lấy Lễ làm trung tâm điểm để soi rọi tư chất, phẩm giá, trí huệ, tâm đạo, hành động thực tiễn và luôn hiện hữu trong mỗi người học võ và hành võ, trong đối nhân, xử thế từ lúc nhập môn cho đến khi sắp giã từ cõi thế.
Vì vậy, một trong những tiêu chí đầu tiên và hết sức quan trọng của người môn sinh khi bước vào học võ là phải trải qua một thời gian dài kiên nhẫn học Lễ, học cách ứng xử, giao tiếp, đi đứng, xưng hô… (ở một số nước phương Đông, còn quan sát cả đức tính làm người, từ hành vi ngôn ngữ, đối xử đến việc xem xét hình dáng của khuôn mặt, đặc điểm của cơ thể, màu sắc của nước da, đặc tính của mục quang, phong thái đi, đứng, nằm, ngồi, cười, nói, ăn, ngủ… theo phương pháp qui nạp và diễn dịch của nhân tướng học).
Việc học Lễ được coi như một nội dung bắt buộc, thiết yếu, mở đầu cho phần nhập môn, không được xem nhẹ hoặc bỏ qua (thời gian học Lễ ngắn hay dài tùy thuộc vào tư chất, tâm đức, thái độ và sự tiến bộ của từng môn sinh), nếu trong quá trình môn sinh học Lễ, người thầy xét thấy không đạt, lập tức loại bỏ ngay hoặc chỉ truyền dạy một số thảo thức, bài võ thông thường để hộ thân, nâng cao sức khỏe.
Do vậy, nên người xưa có câu: “Đệ tử tầm sư dị. Sư phụ tầm đệ tử nan” (Đại ý: việc học trò tìm thầy để học không mấy khó. Nhưng người thầy tìm được học trò đúng nghĩa không phải dễ).